Sau gần 2 năm triển khai, đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) theo Quyết định 71 ban hành ngày 19-4-2009 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Đề án 71) đã có những tác động tích cực đến đời sống người dân các huyện nghèo. Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai đề án.

Lao động nghèo, người dân tộc HRê ở Quảng Ngãi được Công ty Châu Hưng tuyển chọn đi làm việc ở Malaysia
Không như mong đợi
Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB-XH, đến nay có hơn 3.000 lao động nghèo trong phạm vi Đề án 71 được vay vốn ưu đãi (lãi suất 0,33%) để đi làm việc ở nước ngoài. Ngoài ra, thông qua DN và các cơ sở đào tạo, bộ cũng đã tạm ứng hơn 25 tỉ đồng để hỗ trợ chi phí học nghề, ngoại ngữ cho người lao động trước khi đi XKLĐ |
Ngoài ra, hiện còn khoảng 2.000 lao động nghèo đã và đang được tập trung đào tạo, học ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết trước khi xuất cảnh. Các địa phương có số lao động nghèo đi làm việc theo chương trình nhiều nhất là Thanh Hóa (gần 1.000 người), Quảng Ngãi (800 người), Quảng Nam (400 người)...
Theo đánh giá của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, hầu hết lao động nghèo đang có việc làm khá ổn định ở nước ngoài với mức thu nhập bình quân 4 triệu đồng đến 5 triệu đồng/tháng ở thị trường Malaysia; 6 triệu đồng đến 7 triệu đồng ở Libya, UAE và 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/tháng ở Nhật Bản, Hàn Quốc. Ông Nguyễn Xuân Vui, Tổng Giám đốc Airseco, cho biết hơn 100 lao động nghèo, chủ yếu người dân tộc Thái, Mường ở 7 huyện nghèo thuộc tỉnh Thanh Hóa mà Airseco đưa đi, có thu nhập bình quân 8 triệu đồng/người/tháng. Còn theo ông Nguyễn Thế Hiên, Tổng Giám đốc Sovilaco, nhờ cung ứng theo các đơn hàng tốt nhất, đa phần lao động nghèo được Sovilaco đưa sang Malaysia có việc làm ổn định, thu nhập xấp xỉ 6 triệu đồng mỗi tháng.
Có thể thấy Đề án 71 đã tác động tích cực, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn của các huyện nghèo, vùng sâu, miền núi. Dù vậy, do phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc nên kết quả đạt được chưa như mong đợi. Số lượng lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn thí điểm 2009-2010 chỉ đạt 45% so với mục tiêu đề ra là đưa đi 10.000 người.
Chính sách lớn, khó thực hiện
Cục Quản lý Lao động ngoài nước chỉ rõ một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của đề án là một số địa phương còn thờ ơ hoặc chưa thực sự quan tâm vận động, tuyên truyền; phổ biến chủ trương, chính sách cho người dân. Bên cạnh đó, nhiều DN thừa nhận có hiện tượng “đi đêm”, làm XKLĐ kiểu “thân quen” giữa DN với cán bộ địa phương dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, thu hẹp cơ hội lựa chọn DN, đơn hàng của người lao động. Trong khi đó, việc khống chế số lượng DN tham gia (xét chọn theo hợp đồng đăng ký) cũng hạn chế số lượng lao động tuyển chọn. Nhiều ý kiến cho rằng chỉ 30 trong số 170 DN làm XKLĐ tham gia đề án là quá ít. Ngay cả DN được chọn thì hợp đồng tốt, phù hợp với lao động nghèo còn hạn chế.
Ngoài những lý do trên, trở ngại lớn nhất là tình trạng lao động bỏ đăng ký, hủy xuất cảnh chiếm tỉ lệ cao, bình quân khoảng 30%; cá biệt có địa phương, tỉ lệ bỏ đăng ký chiếm 60% - 70% như Đakrông (Quảng Trị), Tân Sơn (Phú Thọ). Chưa kể, phần đông lao động nghèo, nhất là người dân tộc thiểu số không có CMND nên việc vận động họ đi làm giấy tờ là rất khó khăn, tốn nhiều thời gian, công sức.
Theo ông Nguyễn Xuân Vui, mục tiêu mỗi năm đưa 10.000 lao động nghèo đi XKLĐ trong giai đoạn 2011 - 2015 và 15.000 người/năm giai đoạn 2016 - 2020 khó có thể thực hiện được nếu những khó khăn, vướng mắc từ cơ chế, chính sách không sớm được giải quyết.